Thành phần hóa học và dược lý: trong cây tỏi
có một ít iot và tinh dầu (khoảng 100kg tỏi thì chứa chừng 60-200g tinh dầu). Thành phần chủ yếu của tỏi là chất
kháng sinh alixin có tác dụng diệt vi khuẩn rất mạnh nhất là đối với vi trùng
Staphyllococcus, vi trùng tả, thương hàn, phó thương hàn, lỵ, vi khuẩn thối,
trực khuẩn sinh bệnh bạch hầu.
Trong đông y có ghi về
cây tỏi như sau: Tỏi có vị cay, tính ôn, hơi có độc, vào 2 kinh vị và can. Tỏi
có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa băng đới, trùng tích, sát trùng, huyết
lỵ. Ngoài ra còn dùng để tẩy uế, thông khiếu, tiêu nhọt, hạch ở phổi, tiêu đờm,
đẩy chướng, đại tiểu tiện khó khan, tả lỵ….
Cách dùng và liều dùng:
- Chữa lỵ amip, lỵ trực trùng: Lấy tỏi giã
thật nát ngâm với nước sôi để nguội, tỷ lệ 5% hoặc 10%. Ngâm từ 1-2 giờ
rồi lọc qua gạc, không cần tiệt trùng, ngày pha 1 lần để thụt rửa. Trong một
hai ngày đầu, thụt dung dịch khoảng 5% (tương đương 100ml) sau đó dùng lên dung
dịch 10%. Mỗi ngày thụt rửa một lần, để tác dụng nhanh hơn có thể đồng thời
uống thêm 6g tỏi chia thành 3 lần uống trong ngày. Dùng liên tục từ 5-7 ngày sẽ
thấy kết quả rất rõ rệt.
- Ngoài công dụng để chữa lỵ thì nước tỏi
10% còn được dùng chữa các vết thương có mủ và trị giun kim (thụt phối hợp với
lòng đỏ trứng gà), chữa viêm phế quản mãn tính, ho gà và cao huyết áp.
- Chữa cao huyết áp: ngày uống từ 20-50
giọt cồn tỏi, khoảng 1/5 tỏi với cồn 60% (chia thành 2-3 lần uống). Nếu dùng
quá liều, huyết áp sẽ tăng.
- Chữa rết cắn: giã nát củ tỏi xát vào nơi
rết cắn.
Lưu ý: những chứng âm hư, nội nhiệt do thai
sản, đậu trẩn, mũi răng cổ, lưỡi, đau mắt thì không nên dùng.